Sợ “ISO” vì chưa
hiểu “ISO”
“Các
cơ quan chuyên môn khi xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đều tăng
thêm công việc và giấy tờ, đồng thời cán bộ được phân công
vừa phải thực hiện công việc chuyên môn theo nhiệm vụ, vừa
phải kiêm nhiệm công việc theo ISO nên gặp khó khăn về thời
gian.”
Nhận định đó
được đưa ra trong bản Báo cáo Tình hình thực hiện xây dựng
và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt
Nam ISO 9001:2000 (tiêu chuẩn ISO hoặc ISO) của một UBND cấp
huyện. Để tìm hiểu sâu hơn vấn đề này, chuyên gia đánh giá
đã tiến hành phỏng vấn các cán bộ thuộc Ban chỉ đạo xây dựng
và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt
Nam TCVN ISO 9001:2000 (gọi tắt là Ban chỉ đạo ISO) của UBND
huyện đó.
Câu hỏi thứ
nhất được đặt ra là, kể từ khi áp dụng tiêu chuẩn ISO vào
công việc của cơ quan thì có thêm bao nhiêu việc, cụ thể là
những việc gì so với trước khi áp dụng tiêu chuẩn. Cùng với
Ban chỉ đạo ISO, đoàn đánh giá làm một cuộc đối chiếu những
công việc “trước và sau ISO” tại huyện. Kết quả cho thấy
những công việc phải làm thêm bao gồm việc đặt ra mục tiêu
chất lượng, theo dõi đo lường mục tiêu chất lượng, việc ký
nhận khi chuyển giao hồ sơ, lập tờ trình sau khi xem xét hồ
sơ, kiểm tra thực tế, ghi nhận hồ sơ về xử lý sản phẩm (công
văn, quyết định) không phù hợp, thực hiện việc đánh giá nội
bộ... Quá trình đối chiếu và phân tích cho thấy đúng là có
những việc trước đây cơ quan chưa làm như lập tờ trình (trước
đây chủ yếu là chuyên viên khi đi kiểm tra thì ghi vào sổ
tay, về thì báo cáo miệng); theo dõi đo lường mục tiêu
chất lượng (trước đây cũng có mục tiêu, thể hiện dưới
dạng kế hoạch, hoặc những qui định chung chung và không có
hoạt động thống kê, phân tích, kết luận chủ yếu mang tính
chủ quan, định tính); cập nhật thời điểm và trách nhiệm
của các chuyên viên khi chuyển giao hồ sơ (trước đây chỉ
chuyển giao mà không cập nhật); cập nhật thông tin về xử lý
sản phẩm không phù hợp; đánh giá nội bộ; cập nhật hồ sơ của
quá trình sửa đổi văn bản.
Như vậy là
quả thực là nếu thực đầy đủ theo các yêu cầu nêu trên thì
khối lượng công việc có tăng lên, và thời gian cần nhiều hơn.
Đó là về lý
thuyết.
Thực tế, khi
chuyên gia đề nghị cho biết có bao nhiêu Báo cáo sản phẩm
không phù hợp (biểu mẫu theo “qui trình ISO”) được lập trong
năm vừa qua thì không có báo cáo nào cả. Câu hỏi tương tự
được đặt ra với việc áp dụng một số biểu mẫu khác, ví dụ
biểu mẫu ghi nhận ý kiến góp ý của các đơn vị (khi ban hành,
sửa đổi tài liệu) thì kết quả nhận được cũng tương tự. Đến
đây thì nhận định là do làm ISO mà mất thêm thời gian cần
phải được xem xét thêm.
Câu hỏi thứ
hai là liệu những việc tăng thêm ấy có làm tăng chất lượng
và hiệu quả công việc lên không, và bản thân cơ quan thấy
những việc như vậy có cần thiết không. Câu trả lời là “có”
và “không”. Chẳng hạn đối với tờ trình thì Ban chỉ đạo ISO
trả lời không do dự là có. Cụ thể là nó làm hạn chế sự tùy
tiện, cảm tính của chuyên viên khi tham mưu cho lãnh đạo. Tờ
trình thể hiện quan điểm và trách nhiệm của chuyên viên đối
với vấn đề được nêu. Rõ ràng như vậy thì chất lượng công
việc được nâng lên. Việc ký nhận khi chuyển giao hồ sơ cũng
được thừa nhận là có tác dụng nhằm qui trách nhiệm của từng
chuyên viên và tránh việc mất mát hồ sơ. Việc thống kê hồ sơ
giải quyết chậm cũng giúp lãnh đạo nắm bắt được “sức khỏe”
của hệ thống để có những định hướng. Tuy nhiên, nếu việc
thống kê chỉ được thực hiện vào cuối năm thì số liệu rất lớn
và việc thống kê sẽ mất rất nhiều thời gian, dẫn tới tâm lý
ngại và kết quả thống kê không còn tác dụng giúp lãnh đạo
trong công tác điều hành. Ngược lại nếu mỗi tuần, hoặc tháng
đều có các thống kê đầy đủ thì sẽ giúp lãnh đạo kịp thời có
biện pháp thích hợp, đồng thời việc thống kê cuối năm sẽ tốn
ít thời gian và dễ dàng hơn rất nhiều.
Mặt khác, một
số thủ tục quả là có gây thêm giấy tờ và không phù hợp với
thực tiễn của cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ ở một Kho
bạc nhà nước, khi phải điều chỉnh một bút toán do có sự nhầm
lẫn về tài khoản, số tiền..., tức là khi có “sản phẩm không
phù hợp” thì thông thường cán bộ thụ lý sẽ lập tờ trình nêu
rõ nội dung và hướng xử lý trình lãnh đạo duyệt. Sau khi
được duyệt, cán bộ sẽ thực hiện việc điều chỉnh bút toán và
phải lưu lại tất cả các hồ sơ điều chỉnh bút toán. Tuy nhiên,
nếu theo qui trình ISO đã viết thì phải lập Báo cáo sự không
phù hợp. Như vậy là với cùng một sự việc cán bộ phải làm
theo 02 qui trình: qui trình thông thường và “qui trình
ISO”. Vấn đề đặt ra là tại sao phải làm như thế? Người hỏi
luôn nhận được câu trả lời giống nhau là vì “tiêu chuẩn ISO”
bảo thế. Thì ra mọi người đã đánh đồng tiêu chuẩn ISO
9001:2000 với các qui trình đã được viết ra mà không hiểu
rằng tiêu chuẩn chỉ đưa ra yêu cầu, còn qui trình là một (trong
những) cách thức cụ thể để đáp ứng yêu cầu đó. Hiển nhiên là
sẽ có thể có nhiều hơn một cách thức để làm một việc.
Điều đó có nghĩa là qui trình không phải là bất biến mà hoàn
toàn có thể được điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với điều
kiện thực tiễn. Tuy nhiên, để làm được việc này đòi hỏi
người viết phải nắm được bản chất yêu cầu của tiêu chuẩn để
quyết định liệu nên sửa đổi một qui định trong qui trình như
thế nào.
Một thực tế
hiện nay tại nhiều đơn vị khi áp dụng tiêu chuẩn ISO là sự
am hiểu tiêu chuẩn còn khá phiến diện nên cho rằng ISO chính
là các qui trình đã được soạn thảo dưới sự hướng dẫn của tư
vấn. Còn bản chất ẩn đằng sau các qui định của qui trình thì
không được quan tâm đúng mức. Khi hướng dẫn xây dựng HTQLCL,
các chuyên gia tư vấn có thể đã giải thích về yêu cầu của
tiêu chuẩn nhưng khi bắt tay vào viết các qui trình thì mọi
người nhanh chóng quên ý nghĩa, yêu cầu của tiêu chuẩn mà
chỉ còn nhớ những qui định cụ thể của qui trình và coi đó
chính là tiêu chuẩn ISO. Thực ra các lựa chọn được đưa ra
ban đầu không sai xét thuần túy theo yêu cầu của tiêu chuẩn.
Nhưng nếu nó không thích hợp với điều kiện thực tế của cơ
quan hành chính nhà nước thì chính những cán bộ chuyên viên
phải xem xét để đề xuất điều chỉnh. Không ai có thể làm thay
cho chính mình.
Quay lại với
câu chuyện của UBND huyện nêu trên. Khi nghiên cứu qui trình
ISO của ủy ban, chuyên gia đánh giá phát hiện có những qui
trình còn để nguyên dạng qui trình mẫu do tư vấn cung cấp mà
chưa được sửa đổi cho phù hợp. Điều này cho thấy những người
nhận “chuyển giao công nghệ” đã hoàn toàn ỷ lại vào sự hướng
dẫn, thực tế là làm thay của đơn vị tư vấn mà không tự mình
nghiên cứu kỹ sản phẩm mà mình sẽ phải sử dụng. Khi không
còn sự trợ giúp của đơn vị tư vấn nữa thì việc duy trì
HTQLCL sẽ hết sức lúng túng. Và dĩ nhiên, đã không hiểu rõ
về ISO thì việc sợ, hay ngại hoặc ngán ISO là điều dễ hiểu./.
Trần Quốc
Dũng
Trưởng phòng Chứng nhận Hệ thống
QUACERT
|